Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Bác có thể nói, là một bản trường ca sáng ngời vang vọng theo năm tháng. Tố Hữu đã từng có những câu thơ nói về Bác:
Bạn đang đọc: Hồ Chí Minh – Một đời người một bài ca
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người.”
Bác là người đã đưa đất nước Việt Nam từ trong ách nô lệ để đi đến với ánh sáng tự do. Là một nhà cách mạng tài năng, song Bác cũng là một nhà văn lớn của dân tộc, những tác phẩm của Bác để lại cho nền văn học Việt Nam là vô giá, không thể nào thay thế.
Cuộc đời cách mạng
Giai đoạn 1911- 1920
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Ngày 5-6-1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).
Từ năm 1912-1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1930
Cùng với những nhà hoạt động cách mạng của các thuộc địa Pháp, Người thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và xuất bản báo Người cùng khổ (Le Paria) bằng tiếng Pháp vào năm 1922. Trong bài Lời kêu gọi đăng ở số báo đầu tiên, Người cũng chỉ ra mục đích của tờ báo là đấu tranh để giải phóng con người. Trong thời gian hoạt động ở Quốc tế Cộng sản, Người chỉ ra tình cảnh của giai cấp công nhân, nông dân nghèo ở các nước thuộc địa đang chết dần vì đói rét, bệnh tật và kêu gọi Quốc tế Cộng sản giúp đỡ họ.
Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng 11-1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12-1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia. Tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giai đoạn 1930-1945
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6-1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin.
Năm 1938, Người đã gửi thư cho Quốc tế Cộng sản bày tỏ nguyện vọng được về nước.
Trước khi về nước, trong thời gian khi còn hoạt động ở nước ngoài, dù đã từng bị tù đầy trong lao tù đế quốc vượt qua bao khó khăn gian khổ nhưng Người vẫn kiên định thực hiện con đường đã chọn là giải phóng dân tộc. Người vẫn luôn theo dõi tình hình trong nước, kịp thời chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Được Quốc tế Cộng sản chấp thuận, vào ngày 28-01-1941, Người trở về Việt Nam sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài.
Tháng 05/1941, Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp tại Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Người. Hội nghị đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Người khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”
Ngày 02/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”
Tìm hiểu thêm: Tiểu Sử Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Hồ Xuân Hương
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1969
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sự nghiệp văn học
Hồ Chí Minh là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Các tác phẩm của người tập trung chủ yếu vào việc ca ngợi những đức tính tốt đẹp hoặc kêu gọi tham gia cách mạng. Sinh thời, Bác Hồ không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương và Người cũng không bao giờ tự nhận mình là nhà văn, nhà thơ hay nghệ sỹ mặc dù Bác rất yêu văn thơ và cũng rất đỗi tài hoa. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, với lòng yêu nước cháy bỏng, Bác đã quyết tâm tìm đường giải phóng dân tộc và trên con đường hoạt động cách mạng đầy gian khổ ấy, Người nhận ra rằng, văn chương cũng có thể là vũ khí đấu tranh cách mạng. Vì vậy, Người đã dùng văn chương như một vũ khí để phục vụ cách mạng và đã trở thành nhà văn, nhà thơ lớn ngoài ý muốn của mình.
Người nhận ra rằng, văn chương cũng có thể là vũ khí đấu tranh cách mạng. Vì vậy, Người đã dùng văn chương như một vũ khí để phục vụ cách mạng và đã trở thành nhà văn, nhà thơ lớn ngoài ý muốn của mình. Chính Bác đã từng viết rằng:
“Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”.
Sự nghiệp sáng tác văn học của Bác in đậm dấu ấn ở 3 thể loại: văn chính luận, truyện và kí, thơ ca.
Ở thể loại văn chính luận, Người dùng lối tư duy sắc sảo, giàu trí tuệ, lập luận sắc bén, giàu chất luận chiến, dẫn chứng xác thực và tính thuyết phục. Các tác phẩm ở thể loại này được Bác viết với mục đích chính trị, thể hiện những nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử. Tiêu biểu có thể kể đến như “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết từ năm 1921 đến 1925 bằng tiếng Pháp, có 12 chương. Đây là tác phẩm chính luận sắc sảo nói lên nỗi đau khổ của người dân bản xứ và tố cáo trực diện chế độ thực dân Pháp, thức tỉnh, kêu gọi những người nô lệ đứng lên chống lại ách áp bức bóc lột. Bản án chế độ thực dân Pháp là một tác phẩm có phần luận bàn lý lẽ, có chứng cứ ở sách vở và cuộc đời, có phần kết tội đanh thép. Tiếp đó là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, đây là một văn kiện chính trị có giá trị lịch sử lớn lao phản ánh khát vọng độc lập tự do và cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc ta và đã giành chiến thắng. Tác phẩm tuyên bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam trước nhân dân Việt Nam và cả thế giới, được viết với cảm hứng phấn chấn, giàu cảm xúc, cấu trúc chặt chẽ, lý lẽ sắc bén. Ngoài ra là một số tác phẩm khác như: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946); Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966); Bản Di chúc (1965-1969).
>>>>>Xem thêm: Ebook Bí Mật Tư Duy Triệu Phú – Tải PDF sách hay miễn phí
Ở thể loại truyện và kí, các tác phẩm của Bác Hồ đem lại cho người đọc những rung cảm sâu xa và nhận thức lớn lao với một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Một số tác phẩm nổi bật như: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Chuyện con rùa, Những con người biết mùi hun khói, Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu. Hay Nhật ký chìm tàu, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Giấc ngủ 10 năm… Tất cả các tác phẩm này nhằm vạch trần bộ mặt tàn ác, xảo trá, bịp bợm của chính quyền thực dân, thể hiện lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần tự hào dân tộc.
Ngoài văn chính luận và truyện, kí, Bác còn để lại một di sản thơ ca phong phú. Trước hết phải kể đến là tập thơ “Nhật kí trong tù”, gồm 133 bài với hai nội dung lớn: Tố cáo nhà tù vô nhân đạo và xã hội Trung Quốc bất công đồng thời khắc họa bức chân dung vĩ đại của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Bác Hồ còn viết nhiều bài thơ với bút pháp giản dị nhằm tuyên truyền đường lối của Đảng và động viên nhân dân hăng hái tham gia cách mạng. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, Bác cũng viết nhiều bài thơ tức cảnh, trữ tình thể hiện chất trữ tình đằm thắm và cảm hứng anh hùng ca thời đại của bậc đại trí, đại dũng với tâm hồn lạc quan tươi sáng, phong thái ung dung tự tại và một tấm lòng luôn canh cánh nỗi niềm lo âu cho “nỗi nước nhà”. Một số tác phẩm tiêu biểu như: Tức cảnh Pác Bó, Cảnh khuya, Đi thuyền trên sông Đáy, Lên núi, Rằm tháng giêng, Báo tiệp, Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn…
Phong cách nghệ thuật
Hồ Chí Minh có những quan điểm về văn chương rất hay, đặc biệt khi Bác cho rằng văn chương cũng là vũ khí có thể tiêu diệt được kẻ thù:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”
Các tác phẩm của Người đa số đều sử dụng ngôn từ giản dị, dễ hiểu, gần gũi nhất với nhân dân, có sự kết hợp hài hòa giữa hiện đại và cổ điển.
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống gia đình , môi trường văn hoá , hoàn cảnh sống , hoạt động cách mạng , cá tính và quan điểm sáng tác của Người. Phong cách của người rất đa dạng, độc đáo.
Văn chính luận: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục và đa dạng về bút pháp. Giọng văn chính luận rất đa dạng: khi ôn tồn, thấu tình, đạt lí; khi đânh thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
Truyện và kí: giàu chất trí tuệ , tính hiện đại, tính chiến đấu , ngòi bút chủ động,sáng tạo,khi là lối kể chân thực,gần gũi,khi châm biếm sắc sảo,thâm thuý,tinh tế.
Thơ ca: phong cách đa dạng vừa cổ điển vừa hiện đại,nhiều bài cổ thi hàm súc,uyên thâm,nhiều bài vận dụng nhiều thể thơ phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
Để nói về cuộc đời của Hồ Chí Minh có lẽ không chỉ bằng một vài trang giấy, cuộc đời của Bác là một bài hát mà cho đến tận bây giờ người đời vẫn còn ca tụng. Có thể khẳng định rằng, sự nghiệp sáng tác văn thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản vô giá, có những tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của mỗi con người Việt Nam. Những tác phẩm văn học của Người cũng có sự gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, thể hiện tư tưởng, tâm hồn cao đẹp của một bậc vĩ nhân.
Thảo Nguyên