Những Bài Thơ Hay Và Nổi Tiếng Nhất Của Nhà Thơ Huy Cận

Có ai đó đã từng nói “Huy Cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được…”

Bạn đang đọc: Những Bài Thơ Hay Và Nổi Tiếng Nhất Của Nhà Thơ Huy Cận

Tìm hiểu thêm: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Thạch Lam

Những Bài Thơ Hay Và Nổi Tiếng Nhất Của Nhà Thơ Huy Cận

>>>>>Xem thêm: Top những bài thơ hay nhất về mùa hạ đong đầy cảm xúc

Huy Cận, nhà thơ của vạn dặm cô đơn, của nỗi buồn thế kỉ, là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới. Các tác phẩm của ông đều mang trong mình hơi thở của thời đại. Một hồn thơ u sầu lẩn khuất song không kém phần mãnh liệt. Sau đây là một vài tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận:

1. Tràng giang

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

In trong tập “Lửa thiêng”, “Tràng Giang” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam. Bài thơ thể hiện nỗi sầu của thi nhân trước thiên nhiên rộng lớn, của một cái tôi cô đơn trống vắng trước sự rộng lớn của cảnh vật. Qua đó thể hiện nỗi buồn lẩn khuất của cả một thời đại.

2. Đoàn thuyền đánh cá

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh.

Đề tài “Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp

3. Ta viết bài thơ gọi biển về

Ta viết bài thơ gọi biển về
Nghìn năm dào dạt sóng say mê
Hoàng hôn khép nhẹ hàng mi tím
Xanh biếc bình minh buổi gió se

Ta, Biển sinh đôi tự thuở nào?
Sóng ngầm bao đợt nhói lòng đau
Cái vui đầu sóng, buồn chân sóng
Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au.

Rồi một ngày kia hết ở đời
Cho ta theo biển khoả chân trời
Điều chi chưa nói xin trao sóng
Lấp lánh hồn ta mặn gió khơi.

Cảm hứng bất tận của đất nước của nhiệt huyết đã từng xuất hiện trong bài thơ đoàn thuyền đánh cá nay một lần nữa được viết lại. Một giọng thơ đầy hứng khởi và nồng nhiệt đánh dấu sự chuyển biến trong phong cách thơ của Huy Cận.

4. Ngậm ngùi

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi…
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi! Hãy ngủ… anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ…
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ…
– Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…

Nỗi sầu thế kỉ là cảm hứng thơ không bao giờ mất trong các tác phẩm của Huy cận, bài thơ thể hiện nỗi buồn dài dẳng, da diết lại mông lung không thể xác định. Nhà thơ buồn không vì điều gì, thể hiện sự lạc lối của những người làm nghệ thuật thời bấy giờ.

5. Con chim chiền chiện

Con chim chiền chiện
Bay vút, vút cao
Lòng đầy yêu mến
Khúc hát ngọt ngào.

Cánh đập trời xanh
Cao hoài, cao vợi
Tiếng hót long lanh
Như cành sương chói

Chim ơi, chim nói
Chuyện chi, chuyện chi?
Lòng vui bối rối
Đời lên đến thì…

Tiếng ngọc trong veo
Chim gieo từng chuỗi
Lòng chim vui nhiều
Hát không biết mỏi.

Chim bay, chim sà
Lúa tròn bụng sữa
Đồng quê chan chứa
Những lời chim ca.

Bay cao, cao vút
Chim biến mất rồi
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh da trời…

Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.

Thông qua hình tượng con chim chiền chiện, Huy Cận đã gửi tâm tình của mình. Huy Cận đã lấy khung cảnh thiên nhiên bao la xinh đẹp để làm nổi bật cánh chim bay cao vút và tiếng hót ngọt ngào long lanh của chim chiền chiện là cánh chim của bầu trời cao xanh, là chim của đồng quê mang tình thương mến. Chim càng bay cao tiếng hót càng trong veo. Sâu xa hơn nữa: cánh chim chiền chiện tung bay là cánh chim tự do tung hoành.

Huy Cận với những tác phẩm không thể trộn lẫn của mình, xứng đáng là một trong những vì sao sáng nhất của bầu trời văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông sẽ còn tồn tại mãi mãi.

Thảo Nguyên

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *