Lòng biết ơn là sự trân trọng và ghi nhớ những gì mình nhân được từ người khác. Lòng biết ơn là sự thành kính tưởng nhớ và trân trọng những thành quả mà ông cha ta đã để lại. – Khuyết danh
Bạn đang đọc: Tổng hợp những câu truyện cổ tích về lòng biết ơn hay và ý nghĩa
Từ xưa đến nay, cha ông ta đã luôn nêu cao đạo lý uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, nói chung là đề cao lòng biết ơn đối với những người đã giúp đỡ ta trong cơn hoạn nạn, có ơn đối với ta. Những lời răn dạy đó đã được đưa vào trong những câu chuyện cổ tích.
1. Đón nhận
Truyện cổ Trung Hoa kể: Ở miền núi Hô-Phu, có một người đàn bà bán rượu tên là Wong. Một hôm, xuất hiện một vị thiền sư đạo đức đến trọ ở gần quán, dù không có tiền, ngài cũng được bà chủ quán tiếp đãi nồng hậu. Vị thiền sư ở đó khoảng ba năm. Trước khi cáo từ, ngài đào một giếng cạnh quán. Mọi người ngạc nhiên khi một dòng nước trong vắt vọt lên, họ nếm thử thì thấy đó là một loại rượu hảo hạng. Từ đó, bà chủ quán trở thành nổi tiếng và giàu có.
Ít lâu sau, vị thiền sư lại ghé ngang quán, ngài hỏi thăm bà chủ quán về giếng rượu. Bà này than phiền:
– Rượu tốt nhưng tôi không bao giờ có dư để dự trữ.
Vị thiền sư mỉm cười rồi lẳng lặng viết lên tường:
– Trời đất thật bao la, nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế nữa. Dù không tốn kém bà chủ vẫn có rượu để bán thế mà vẫn không hài lòng.
Viết xong thiền sư lẳng lặng ra đi, và dòng rượu cũng khô cạn”.
Câu chuyện đưa ra một bài học vô cùng quý giá. Đó là con người cần phải biết ơn với những gì chúng ta nhận được, không nên đòi hỏi thêm để thỏa mãn lòng tham vô đáy. Phải biết ơn những người đã giúp đỡ mình, biết ơn cuộc sống của bạn đã đầy đủ và tốt đẹp như thế. Tập đón nhận hạnh phúc giản dị 1 chút để cuộc sống thanh thản hơn. Với những người quên đi sự giúp đỡ của người khác thì sẽ nhận hình phạt thích đáng.
2. Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán
Ngày xưa, có một anh chàng không có tài nghệ gì cả, chỉ được cái hiền lành hay thương người. Từ lúc vợ chết, anh ta trở nên túng bấn tợn. Có dạo phải ngửa tay ăn xin. Thấy nghề này hèn hạ lại không nuôi nổi tấm thân, anh chàng mới xoay sang đi làm thuê. Nhưng chỉ làm được một ngày anh đã thấy mệt nhọc và bị chủ la mắng nhục nhã, nên lại dự định làm nghề đi câu là nghề anh cho là thong thả, tự do hơn. Chiều hôm đó, người ta trả công cho ba mươi đồng kẽm. Anh chàng bèn lấy số tiền đó làm vốn, mua lưỡi mua dây quyết chí làm ăn bằng nghề nghiệp mới.
Sáng hôm sau, anh ra ngồi ở bờ sông câu cá. Nhưng mãi đến trưa chả kiếm được một tý gì. Mồi cứ mất toi. Mãi đến chiều mới thấy phao chìm xuống, anh giật lên thì được một con rắn nước. Lấy làm bực mình, anh chàng gỡ con rắn ra rồi quẳng xuống sông. Lần thứ hai giật lên thì lại chính con rắn nước hồi nãy mắc vào lưỡi.
Anh than thở với rắn: – “Rắn ôi! Tao nghèo lắm, chỉ được ba mươi đồng kẽm thôi. Mày đừng hại tao hết cả mồi, rồi đây biết lấy gì kiếm ăn”. Anh chàng lại quẳng rắn xuống nước. Lần thứ ba cũng lại con rắn đó mắc lưỡi câu. Lần này hắn giận lắm, không thả con rắn xuống nước nữa mà nắm lấy cổ rắn định mang đi giết. Qua cửa đền bà thần Khai Khẩu, tự nhiên con rắn nước kêu lên:
– Đừng giết tôi, tôi là con vua Thủy phủ. Vì muốn đánh bạn với anh nên mới tự cắn câu nhiều lần như thế. Hãy cho tôi đi theo, tôi sẽ giúp anh vượt qua cảnh nghèo.
Anh nghe lời, cho rắn theo mình. Từ đó anh câu được nhiều cá: thứ ăn, thứ bán, cuộc sống rất dễ chịu. Anh chàng với rắn ngày một tương đắc.
Một hôm rắn cho anh biết chỉ ba ngày nữa sẽ có một trận lụt lớn xưa nay chưa từng có. Anh nghe lời rắn đóng một chiếc bè nứa để phòng tai nạn. Anh lại còn loan báo cho mọi người xung quanh biết. Nhưng chả một ai thèm nghe. Ba ngày sau, quả nhiên gió bão nổi lên đùng đùng, mưa to như trút, nước dâng lên như biển cả.
Người, vật, đồ đạc và mùa màng,… đều trôi băng băng mất tích.
Mãi đến ngày cơn bão tạnh, anh mới dám chống bè tìm về chốn cũ.
Thấy một cái tổ kiến đang lênh đênh trên dòng nước, con rắn bảo anh chàng:
– Anh hãy cứu chúng nó 1 chút.
Anh trả lời:
– Vớt làm gì bầy kiến nhỏ mọn ấy để chúng bò khắp bè.
Nhưng rắn khẩn khoản:
– Không, anh hãy nghe lời tôi đi. Rồi chúng nó sẽ trả ơn anh.
Nghe lời rắn, anh chàng vớt cái tổ kiến lên bè của mình.
Đi được một đoạn, lại gặp một con chuột đang lội bì bõm sắp chết đuối. Rắn lại giục anh vớt lên. – “Ồ, – Hắn đáp – Con chuột thì cho nó chết chứ cứu nó mà làm gì” – “Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng vớt con chuột lên bè của mình.
Đến một chỗ khác, họ lại gặp một con trăn đang nằm cuộn tròn trên một ngọn cây giữa dòng nước đợi chết. Rắn cũng giục anh giúp trăn thoát nạn. – “Ồ – hắn đáp – Con trăn kinh lắm, cứu nó mà làm gì?” – “Không, anh hãy nghe tôi đi. Rồi nó sẽ trả ơn anh”. Nghe lời rắn, anh chàng lại giúp cho con trăn lên bè.
Sau cùng họ gặp một người đàn ông đang bám vào một cây gỗ nổi bập bềnh giữa dòng nước. Anh không đợi rắn bảo, định vớt lên bè, nhưng con rắn cản lại:
– Anh đừng vớt nó lên làm gì, nó sẽ làm hại anh đấy.
Mặc kệ lời rắn can ngăn, anh nhất định thực hiện ý nghĩ của mình, vớt người sắp chết đuối đó lên bè, cho sưởi lửa ấm và cho ăn uống tử tế.Sau mấy ngày nước rút đi hết, anh thả tất cả những con vật lên bờ. Còn người nọ vì gia đình phiêu bạt, nhà cửa trôi mất cả nên anh cho ở lại với mình cùng câu cá nuôi nhau và coi như em ruột.
Đến lúc con rắn nước trở về Thủy phủ thì nó mời anh cùng đi theo xuống giang sơn của cha mình. Dọc đường, rắn bảo bạn: – “Nếu cha tôi có cho gì thì anh nhớ đừng nhận, mà chỉ xin lấy cây đàn thất huyền. Đàn ấy nếu có giặc, gảy một bài là có thể làm cho giặc phải tan”. Vua Thủy thấy có bạn của con tới chơi lấy làm mừng rỡ, đãi anh chàng rất hậu. Khi vua Thủy sai quân hầu mang vàng bạc châu báu đến biếu, anh nhớ lời rắn cố khước từ, chỉ xin có mỗi một chiếc đàn thất huyền. Vua Thủy nể chàng, thuận cho ngay. Anh trở về cõi đất, quý chiếc đàn vô hạn.
Một hôm anh có việc phải đi xa. Trước khi đi, anh giấu chiếc đàn thần dưới cót thóc, dặn người bạn chớ có bén mảng đến chỗ cót thóc đó. Nhưng người kia nghe dặn, đồ rằng dưới ấy tất có vật quý bèn cố công kiếm tìm, quả bắt được cây đàn. Hắn đã biết sự mầu nhiệm của cây đàn ấy bèn lấy trộm rồi trốn đến kinh đô để lập công danh.
Hồi ấy quân đội nhà vua phải đối địch với một nước láng giềng luôn luôn kéo quân sang quấy nhiễu bờ cõi. Hắn vào xin vua đi tiễu trừ giặc dữ. Nhờ có chiếc đàn thần, hắn đã làm cho quân đội của đối phương thua liểng xiểng. Nhà vua toan gả con gái cho đại tướng nhưng vừa hứa hôn thì bỗng dưng công chúa bị câm. Vì thế hôn lễ đành phải hoãn lại chờ lúc công chúa lành bệnh mới cử hành.
Lại nói chuyện anh chàng câu cá, khi trở về thấy mất bạn lại mất cả cây đàn thất huyền thì vội bỏ nhà đi tìm. Vào đến kinh đô, một hôm anh gặp người kia bây giờ đang ngồi trên kiệu sơn son thiếp vàng, có quân gia theo hầu đông nghịt. Anh đón kiệu lại, cất tiếng hỏi thăm bạn cũ. Nhưng người kia vừa gặp ân nhân của mình đã vội thét lính bắt trói lại. Thế rồi, để khỏi lộ chuyện, hắn vu cho anh làm giặc, sai nhốt một chỗ kín đáo, không cho ăn, để chờ ngày đưa ra pháp trường.
Trong ngục tối, giữa khi anh chàng đang than thân trách phận thì bầy kiến ngày xưa đã tìm được cách lọt vào hỏi thăm: – “Tại sao ông bị giam ở đây?”. Anh chàng ngơ ngác không hiểu tiếng ai hỏi mình, bèn hỏi lại: – “Ai đó? Tại sao tôi chỉ nghe tiếng mà không thấy người?” – “Chúng tôi là bầy kiến mà ông cứu khỏi nạn lụt ngày xưa, hiện đang ở dưới chân ông đây.” Anh chàng cúi xuống tìm kiến rồi kể chuyện cho kiến nghe nông nỗi của mình. Kiến nói: – “Chúng tôi không thể làm được gì nhưng để chúng tôi đi kiếm con chuột ngày ấy, may chuột có kế gì chăng”.
Lũ kiến bèn chia nhau mỗi con một phương đi kiếm chuột và báo tin không may của ân nhân cho chuột biết.. Chuột liền đưa khoai và bánh lấy trộm được của một nhà hàng vào ngục cho anh chàng ăn. Anh tỏ lời cảm ơn. Rồi cả gia đình nhà chuột lại kéo nhau đi tìm trăn. Lúc sắp đến nhà trăn, cả bầy chuột sợ trăn ăn thịt bèn trèo lên cây cao gọi xuống: – “Bác trăn ơi! Bác trăn ơi!” Khi trăn ra, một con chuột già đánh bạo đánh bạo xuống kể chuyện cho trăn biết. Trăn nhả ra một viên ngọc bảo chuột đưa về cho ân nhân mà rằng: – “Viên ngọc này mài ra thành bột có thể chữa lành câm. Ân nhân của chúng ta có thể đem chữa bệnh cho công chúa và nhờ đó mà thoát nạn”.
Khi được ngọc, anh chàng gọi người cai ngục đến nói mình có phép cứu công chúa khỏi câm. Người ta dẫn anh đến trước vua. Quả nhiên sau khi công chúa uống nước ngọc mài bỗng nói được, và câu đầu tiên của nàng là đòi lấy người cứu mình làm chồng. Vua rất khen ngợi, hỏi anh ta làm sao có thứ thuốc thần diệu đến thế.
Anh chàng kể lại đầu đuôi câu chuyện.Vua nghe xong tắc lưỡi: – “Thật là bụng dạ con người sâu hiểm hơn cả những con vật nguy hiểm”. Lập tức vua sai lính bắt giam tên đại tướng bất nghĩa kia để chờ ngày phán xử. Còn anh chàng đi câu được vua cho làm quan và gả công chúa. Anh ta sống một cuộc đời sung sướng hơn trước.
Ngày nay, câu Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân trả oán dùng để mỉa mai những người lấy oán trả ân, thua kém cả loài vật. Câu chuyện đả kích mạnh mẽ những người vong ơn bội nghĩa, phụ bạc tình nghĩa, vì tiền bạc mà quên đi đạo đức sống, phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của ông cha ta. Đồng thời khuyên nhủ chúng ta hay luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, nhất định sẽ được đền đáp xứng đáng, như nhân vật chính trong câu chuyện trên.
3. Lòng biết ơn của con cáo – truyện cổ Nhật Bản
Ngày xưa, trong một làng nọ, có hai vợ chồng già. Ông già làm việc trong một thửa ruộng nhỏ và đi lượm củi khô trong rừng. Khắp các vùng quanh đấy, mọi người đều kính trọng ông vì ông là người chân thật và có lòng nhân ái, thậm chí không làm hại đến một con ruồi. Bà già thì có hơi ưa gây gổ một chút và lắm lời nhưng lại cần cù và tề gia nội trợ khá gương mẫu. Cả một đời, hai người làm việc đầu tắt mặt tối, nhưng vẫn không bao giờ giàu lên được. Càng ngày họ càng già yếu mà vẫn tay làm hàm nhai.
Tìm hiểu thêm: Sự tích chim Quốc
Mỗi lần ông già mang củi ra chợ bán, cả hai lại hy vọng lần này sẽ còn dư chút đỉnh, nhưng rồi họ lại tiêu hết, không để dành được đồng nào. Khi thì hết muối, khi khác phải trả món nợ đã vay mượn từ lâu.
Một hôm, ông già đi bán củi ở chợ về, lần này thì ông gặp may, nợ đã trả hết, mà trong lưng lại còn mấy đồng tiền đồng.
Chắc bà già sẽ mừng lắm! Ông nhủ thầm – số tiền này ta sẽ cho vào hũ. Cuối cùng chúng ta đã bắt đầu để dành được cho tuổi già rồi.
Ông bước đi, trong lòng phấn khởi. Khi gần đến làng, ông thấy dưới lòng sông khô nước, có một tốp con nít nhảy múa reo hò và ông nghe những tiếng kêu than thở. Bọn con nít trong làng vừa bẫy đánh một con cáo, và chúng đang nô đùa bằng cách hành hạ con vật khốn khổ. Ông già thấy thương hại con vật. Hai mắt nó buồn xo, và hơn nữa, nó đã ngất ngư rồi.
Các cháu không thấy xấu hổ à? – Ông già nhìn bọn trẻ nói – Hành hạ một con vật khốn khổ. Các cháu hãy thả ngay con cáo ấy ra đi!
Nhưng bọn trẻ lại quay qua chế nhạo ông già:
Ông đừng xía vào chuyện không liên quan đến mình. Nếu thương hại con cáo thì ông mua nó đi. Chúng tôi sẽ bán cho ông với giá đắt đấy!
Ông già suy nghĩ. Ông thương hại con cáo thật, nhưng không thể làm gì bọn trẻ được. Lại còn đem số tiền vừa dành dụm lần đầu tiên để mua con cáo của chúng ư? Nhưng con cáo cứ rên rỉ than van, thấy tội nghiệp quá. Ông bèn quyết định dứt khoát, ông rút cái ví tiền ra, lấy mấy đồng đưa cho bọn trẻ, ông tự nhủ: “ta vẫn còn làm việc được, vậy ta còn có thể để dành sau”
Thế là ông già ôm lấy con cáo, mang nó vào sâu trong rừng. Con cáo nhìn ông già với ánh mắt biết ơn, rồi chạy ẩn mình trong hang. Ông già về nhà với hai bàn tay không.
Một hôm, con cáo bỗng xuất hiện trong sân nhà của hai vợ chồng ông già. Bà già thấy sợ, và bỗng thấy nhớ đến tiền ông chồng đã tiêu. Bà liền càu nhàu:
Vì mày mà chúng tao đã tốn một số tiền, rồi lại còn lo lắng vì ông già về quá trễ, thế chưa đủ sao mà bây giờ mày lại còn đến tận nhà chúng tao? Thôi, cút đi!
Bả già đi kiếm cây gậy để đuổi con cáo.
Nhưng cáo không đếm xỉa đến những lời la lối của bà già: nó đợi cho đến khi ông già bước ra sân để xem có chuyện gì, nó mới đến gần ông và nói.
Thưa ông nội. Ông đã cứu sống tôi, tôi không bao giờ quên ơn ông. Tôi định có dịp sẽ dùng xảo thuật của mình để trả ơn ông. Vết thương của tôi lành đã lâu rồi, cho nên hôm nay tôi đến thăm ông. Hãy cho tôi biết ông cần gì để tôi giúp ông.
Nhưng ông già càu nhàu:
Đừng nói như thế mà nhọc công, hãy trở về rừng mau đi để bọn trẻ lại thộp cổ được mày nữa đấy! Lần này thì ta không thể giúp được gì cho mày đâu, vì ta không có một đồng xu dính túi. Thôi, đi đi!
Nhưng con cáo đáp:
Nếu ông không muốn gì hết, thì tôi xin nói cho ông nghe cái ý mà tôi đã nghĩ ra trong lúc nằm dưỡng sức trong hang. Không xa nơi đây, có một tu viện, ông thầy tu già trong ấy rất thích sưu tập đồ dùng cũ và các bình chứa cũ. Ông ta đã thuê người đi khắp nơi để mua những cái chảo cũ, những ấm nước cũ và những thứ đại loại như thế. Tôi sẽ biến thành một cái ấm nấu nước sôi thật đẹp và ông hãy mang đến bán cho ông ấy. Ông ta sẽ trả cho ông một số tiền khá lớn, và ông khỏi lo tuổi già không nơi nương tựa.
Ông già một mực nói rằng ông không cần, và bảo nó nên về rừng mau lên, nhưng con cáo đã quấn đuôi quanh chân, cúi đầu xuống, quay quanh ba vòng rồi thay vì là cáo, trước mắt hai vợ chồng già là cái ấm đồng xưa thật đẹp. Nắp ấm có hình một cái đầu cáo, và cái vòi giống như cái mõm cáo kéo dài ra.
Cả ông lẫn bà già đều ngạc nhiên không nói nên lời được. Bà già là người lấy lại bình tĩnh trước, bà cầm lên gõ mấy cái vào thành ấm làm vang lên tiếng kêu của loại đồng nguyên chất.
“Có lẽ ông thầy tu sẽ trả giá cái ấm này đắt lắm đây” – bà nghĩ thế và như thấy tiền bạc đang hiện ra trước mắt mình. Bà liền thuyết phục ông:
Ông hãy bình tĩnh đến tu viện đi. Con cáo có lý đấy. Mình đã vì nó mà hết nhẵn tiền thì bây giờ nó làm thế này đề chúng ta lấy lại tiền thôi chứ chúng ta làm quái gì với cái ấm đẹp thế này. Con cáo nói thật đấy, nó sẽ không biến hóa lại nữa đâu.
Vừa cầm cái ấm, thầy tu đã khoái chí reo lên:
Chưa bao giờ tôi thấy một cái ấm đẹp như thế này, dù tôi có rất nhiều ấm! Đây quả là cái ấm bằng đồng nguyên chất! Thật hiếm khi thấy được một vật như thế này! Ông kiếm được nó ở đâu thế?
Ông già bèn lập lại những lời bà già đã dặn, và ông thầy tu khen bà già đã có một quyết định hết sức đúng đắn khi đem cái ấm đi bán rồi trả cho ông già bảy đồng tiền vàng.
Ông già sung sướng quay về nhà. Chưa bao giờ ông có nhiều tiền như thế này, thậm chí ông còn chưa thấy đồng tiền vàng ra sao nữa là.
– Đừng lo đến chuyện ngày mai nữa nhé, – ông tự nhủ.
Ông già vừa đi khỏi, thầy tu gọi đệ tử đến, sai đem cái ấm xuống sông để chùi cho sạch.
Ta sao muốn xem thử chế trà trong cái ấm như thế này có mùi vị ra sao!
Các đệ tử lấy cái ấm chạy xuống sông, lấy cát chà mạnh vào cái ấm đến nỗi tay họ đỏ rần lên. Nhưng cái ấm thì sao? Nó phát ra tiếng rên nho nhỏ. Họ ngạc nhiên, bèn súc cái ấm và đánh nhè nhẹ cho bóng. Lần này thì họ nghe như cái ấm đang cười và nói: “ha ha ha thọc lét nhột quá!”. Các đệ tứ sợ quá, múc nước đầy ấm rồi chạy về, kể lại cho ông thầy tu nghe.
Cái ấm này kỳ quặc quá. Khi chúng con chà cát thì nghe có tiếng rên, còn khi đánh bóng thì nó lại cười.
Có gì đâu mà lấy làm lạ, – thầy tu trấn an họ. – Loại ấm quí như thế thường phát ra những âm thanh lạ lùng khi ta lau chùi. Đây là cái ầm quí ta chưa từng thấy đó.
Ông thầy tu cho gọi ông già đến, bắt phải trả lại tiền. Ông già xin lỗi hết lời, nói với vị tu sĩ là chắc cái ấm bị bùa phép nên mới thế. Ông thầy tu đáp:
Rõ ràng là thế rồi, nhưng tiền bạc của tôi là tiền thật. Hãy trả lại tiền cho tôi! Trên đường trở về nhà, ông già càu nhàu trách vợ và con cáo:
Hậu quả thế đấy. Đi lui đi tới thật vô ích, đã vậy còn mang nhục nữa.
Mấy ngày sau con cáo lại xuất hiện ở nhà ông già. Chân cẳng nó đã lành. Nó xin lỗi đã làm phiền ông già.
Lửa nóng quá khiến tôi không chịu nổi, – nó nói. – Khi họ xát cát vào người, tôi đã không chịu nổi rồi. Vậy mà họ còn lọc lét tôi nữa chứ! Đúng, quả là ý kiến này không ổn. Nhưng lúc nghỉ ngơi trong hang, tôi lại nảy ra một ý hay khác. Tôi sẽ biến thành một con ngựa thật đẹp, ông hãy đem ra phố mà bán. Dù đường lên phố có hơi xa nhưng sẽ có nhiều thương gia giàu có muốn mua ngựa tốt để thồ hàng hóa. Chắc chắn ông sẽ kiếm được một số tiền lớn để an dưỡng tuổi già. Và ai có được ngựa tốt như thế cũng không lấy cát mà xát hay đùng lửa để đốt đâu.
Ông già chưa kịp phản đối, thì con cáo đã quấn đuôi quanh chân, cúi đầu, quay tròn ba vòng trước mặt ông già liền hiện ra một con ngựa giống. Nó ngẩng đầu lên kiêu hãnh, bờm sáng loáng như vàng, bộ lông mượt mà, và nó nhún nhẩy như sẵn sàng phóng đi khi có lệnh.
Đến thành phố, ông già liền đi tìm xem chợ nằm ở đâu. Chỉ một lát sau ông đã đến chợ, vừa mới ăn xong một tô cơm, liền có một thương gia giàu có đi qua. Con ngựa làm ông ta thích quá, và sợ người khác mua trước, ông ta bèn trả bốn mươi đồng tiền vàng. Người thương gia nói với ông già:
Ông đến đúng lúc quá, ngày mai tôi phải thồ hàng ra chợ nên cần một con ngựa thật khỏe. Đừng nghĩ ngợi lôi thôi, không ai trả cao hơn tôi đâu, hết giá rồi đấy.
Ông giả bỏ bốn mươi đồng tiền vàng vào túi, sung sướng quay về nhà, nhưng còn con cáo thì sao?
Con ngựa mua xong, tôi tớ người thương gia liền dẫn nó về, ở đây nó được uống nước trong và ăn lúa mạch ngon. Rồi một tên đầy tớ còn đến chải lông cho nó nữa. Con cáo tự khen mình:
– Lần này thì chắc kế hoạch của mình tốt rồi.
Nhưng vào sáng hôm sau, cục diện lại khác đi. Người ta xua hết ngựa ra khỏi chuồng để thồ những bao muối và trà cực nặng.
Nó nguyên chỉ là con vật nhỏ, làm sao mang nổi một trọng lượng nặng như một con ngựa giống? Nhưng đã quyết giúp ông già rồi, cho nên nó nghiến răng chịu đựng và cố sử dụng tối đa tài ảo thuật mình biết, để giữ sao cho khỏi đổ sụm liền dưới một sức nặng khủng khiếp như thế.
Khi hàng hóa đã chất xong xuôi, đoàn ngựa chở hàng lên đường. Chú cáo cố gắng cất chân bước đi, nhưng nó khập khiễng nặng nề khó nhọc, và vừa ra khỏi thành phố là nó ngã quỵ.
Quả là con ngựa kỳ lạ. – Những người dẫn đoàn ngựa chở hàng nói. – Nó có vẻ mạnh khỏe, thế mà không chở được cái gì hết. Chúng ta phải làm gì nhỉ? Chắc phải đem nó ra bán ở chợ trưa thôi.
Họ hỏi ý kiến, và vì con ngựa có vẻ như có thể chết thình lình, nên họ dỡ hàng trên lưng nó chất lên các con ngựa khác và bỏ nó lại dọc đường.
Chú cáo ở đấy một hồi thật lâu, mệt phờ. Khi đã lấy lại một ít sức lực để có thể biến thành cáo, nó bèn đi chầm chậm về phía hang của mình.
Sau một thời gian, con cáo quay lại nhà ông già, cặp vợ chồng già vui sướng đón tiếp nó, vì từ khi bán con ngựa đến nay, họ sống rất thoải mái. Họ hỏi chuyện gì đã xảy đến cho chú cáo, và cáo kể hết những gì đã xảy ra với mình.
Tôi muốn giúp ông, ông nội à. Vì ông đã cứu sống tôi. Nhưng lần nữa tôi không làm đến nơi đến chốn. Tôi chỉ là một con cáo yếu đuối không có sức mạnh như ngựa được. Nhưng ông đừng nghĩ một con vật bé nhỏ, yếu đuối như tôi mà không biết nhớ ơn đâu. Lần này xin ông hãy nghe kế hoạch của tôi.
Nó không nói nữa mà lấy đuôi của mình quấn quanh bốn chân, cúi đầu quay ba vòng: hai vợ chồng già ngạc nhiên thấy hiện ra trước mắt một cô gái thật đẹp, tóc dài, đen, da trắng muốt. Cô gái mỉm cười nhìn họ và tiếp tục nói giọng điệu của cáo:
Tôi sẽ là cháu nội của ông bà, tôi sẽ chăm sóc để ông bà được sống đầy đủ trong tuổi già. Ông nội này, ông lấy tiền bán ngựa rồi ra phố mua ba cái áo kimônô bằng lụa: một cái trắng, một cái màu hoa đào có vẽ quạt và một cái màu tím có trang hoàng hoa cúc trắng. Ông cũng mua một sợi dây lưng rộng bằng gấm, kim kẹp tóc dài và phấn đánh mắt. Tôi sẽ mặc áo kimônô chồng lên nhau và đánh phấn, rồi ông dẫn tôi ra phố, giới thiệu đây là cháu nội của mình. Tôi biết hát, biết múa, ông sẽ kiếm được nhiều tiền cho mà xem.
Cháu xin cảm ơn ông nội, bà nội ạ. Cháu đã sống với nhiều người quá rồi, giờ cháu chỉ muốn tìm lại cảnh yên tĩnh của núi rừng mà thôi.
Con cáo quay lại hang của nó ở trong rừng. Rồi hôm nào muốn sống bên người, nó lại đến thăm ông và bà nội buổi tối. Họ ngồi ngoài vườn nhớ lại đoạn đường đã qua. Khi con cáo chết vì cáo có đời sống ngắn hơn người, hai vợ chồng già xây trong rừng một tượng đài nhỏ để tưởng nhớ con cáo biết ơn và cho đến nay người ta vẫn còn thấy tượng đài này.
Câu chuyện mượn hành trình trả ơn của loài cáo, để từ đó khuyên răn mọi người giá trị của lòng biết ơn. Dù chỉ là một con vật bé nhỏ và nó có thể không cần phải trả ơn ông lão khi được cứu, nhưng nó đã chứng minh rằng bản thân con vật cũng có tình người. Thật cảm động khi con cáo rất nhiều lần chịu khổ để trả ơn ông lão. Trong cuộc sống, chúng ta cần phải biết trân trọng những người đã giúp đỡ chúng ta khi gặp khó khăn, luôn nhắc nhở bản thân về ân nghĩa đó cũng như cố gắng để có thể đền đáp.
4. Con quạ trả ơn và viên ngọc ước
Ngày xưa có một thằng bé chăn trâu cho một nhà phú hộ kia.
Một hôm nó đánh trâu ra đồng ăn cỏ. Chẳng may trâu bị lạc mất. Người chủ độc ác bắt nó phải đền tiền. Nhưng nghèo như nó, đào đâu ra tiền mà trả.
Thằng bé đang nằm bất động ngoài ruộng suy nghĩ miên man chưa biết phải làm gì, thì một con quạ cái từ đâu bay tới. Thấy nó nằm im, quạ tưởng là một xác chết, định ăn thịt.
>>>>>Xem thêm: Những bộ truyện cổ tích tiếng Anh song ngữ cực hay cho bé
Thằng bé nhanh tay tóm được con quạ và nói:
– Mày định ăn thịt tao à? Tao phải giết mày mới được.
Nhưng khi nghe quạ kể tình cảnh gia đình nghèo, một mình phải đi làm nuôi đàn con dại, thằng bé thương tình buông tha quạ.
Trước khi bay đi, quạ nhả trong miệng ra một viên ngọc và nói:
– Xin tặng cậu viên ngọc này gọi là chút quà tạ ơn. Nhờ viên ngọc này, cậu ước gì được nấy.
Thằng bé vui mừng cầm lấy viên ngọc và ước liền:
– Ước gì ta có một con trâu.
Tức thì một con trâu to béo hiện ra. Nó dắt trâu về trả chủ rồi xin nghỉ việc.
Sau đó nó cầm viên ngọc trong tay và ước:
– Ước gì ta có ngôi nhà đẹp để ở.
Tức thì một ngôi nhà đẹp hiện ra. Thằng bé được thể ước luôn:
– Ước gì ta có một ngưòi vợ đẹp.
Quả nhiên, trong làng có cô gái trẻ đẹp đến xin làm vợ.
Nhờ viên ngọc, hai vợ chồng ước gì được nấy. Cuộc sống vật chất đầy đủ toàn vẹn. Nhưng người vợ có tính tham lam. Riêng mình sung sướng chưa đủ, nàng muốn cho cả gia đình bố mẹ mình cũng được sung sướng nữa.
Vì vậy, thừa lúc chồng đi vắng, nàng đánh cắp viên ngọc quí rồi bỏ về nhà bố mẹ.
Thằng bé về nhà thấy mất cả ngọc lẫn vợ, ngồi ôm mặt khóc. Ông Bụt hiện ra hỏi lý do.
Nghe thằng bé kể đầu đuôi câu chuyện, Bụt liền bảo:
– Thôi đừng khóc nữa! Để ta có cách giúp con.
Nói xong, Bụt đưa nó hai bông hoa, một bông trắng một bông đỏ và dặn:
– Nghe đây! Con đem bông hoa trắng trồng trước nhà vợ con. Nhiều chuyện tức cười sẽ xảy ra sau đó. Và họ sẽ phải cầu cứu tới con. Lúc ấy, con sẽ dùng bông hoa đỏ để cứu họ.
Thằng nhỏ làm theo lời Bụt dặn. Nó đem bông hoa trắng trồng ngay trước cửa nhà vợ. Bồn hoa xông ra một mùi thơm khác thường, khiến cả nhà bên vợ xúm lại ngửi. Nhưng lạ thay, vừa ngửi xong, mũi người nào người nấy cứ từ từ dài ra như cái vòi voi, trông thật tức cười.
Thằng nhỏ nghe tin, đến nhà vợ hỏi thăm. Bố vợ nó ra gặp và nói:
– Con ơi! Không biết nhà ta có tội gì mà bị Trời phạt như thế này. Thật xấu hổ quá.
Nó trả lời:
– Tại vợ con đã ăn cắp viên ngọc quí của con đó.
Nghe vậy, ông ta hối lỗi, sai trả lại viên ngọc và bảo con gái mình về ở với chồng.
Bấy giờ thằng nhỏ mới lấy bông hoa đỏ ra cho mọi người ngửi. Tức thì mũi mọi người co lại bình thường như trước.
Hai vợ chồng lại sống hòa thuận với nhau và sinh được nhiều con cái.
Vẫn mô típ quen thuộc của truyện cổ tích, câu chuyện một lần nữa khuyên răn chúng ta phải biết ghi nhớ công lao của những người đã giúp đỡ mình. Con quạ trong câu chuyện vì để đền ơn cứu mạng đã tặng chàng trai viên ngọc quý, khẳng định giá trị tốt đẹp của lòng biết ơn, đồng thời khuyên mọi người luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Thảo Nguyên